Lý thuyết DOW là gì ?

Lý thuyết Dow là gì? Nền tảng của phân tích kỹ thuật cần phải biết

Lịch sử của phân tích kỹ thuật có từ hàng trăm năm trước. Theo các nguồn lịch sử, phân tích kỹ thuật dường như xuất hiện lần đầu tiên ở Nhật Bản, vào thế kỷ 18. Homma Munehisa, một thương gia gạo, được coi là người sáng lập ra phiên bản phân tích kỹ thuật của Nhật Bản dựa trên biểu đồ nến, công cụ rất phổ biến hiện nay. Sau đó, vào thế kỷ 19, phân tích kỹ thuật trở nên phổ biến ở Mỹ. Charles Dow là cha đẻ của phân tích kỹ thuật hiện đại ở phương Tây. Ông đã phát triển một lý thuyết, sau này được gọi là Lý thuyết Dow, thể hiện ý tưởng của ông về các hành động giá trên thị trường chứng khoán. Charles Dow cũng là một trong những người sáng lập Dow Jones and Company, đồng thời là biên tập viên đầu tiên của Wall Street Journal, nơi ông công bố những ý tưởng của mình về hành vi của thị trường chứng khoán. Lý thuyết Dow là cơ sở ban đầu để phát triển thêm phân tích kỹ thuật và ngày nay nó vẫn đóng một vai trò quan trọng trong thế giới tài chính. Dow không xuất bản lý thuyết hoàn chỉnh trên thị trường, và do điều này, sau cái chết của Dow (1902) một số người theo William Peter Hamilton, Robert Rhea và E. George Schaefe đại diện chung cho lý thuyết của ông, dựa trên các đánh giá của ông.

6 nguyên tắc

Lý thuyết Dow được tạo thành từ sáu nguyên tắc và tất cả các nhà giao dịch quyết định sử dụng phân tích kỹ thuật nên biết 6 nguyên tắc này, vì chúng sẽ giúp họ hiểu cách thị trường hoạt động.

  1. Giá phản ánh tất cả 

Mọi yếu tố, thông tin có khả năng ảnh hưởng đến cung và cầu cảm xúc nhà đầu tư cho đến lạm phát, dữ liệu lãi suất… đều được phản ánh trong giá thị trường.

  1. Ba xu thế của thị trường

Theo Dow, ba xu thế của thị trường gồm: xu thế chính (xu thế cấp 1), xu thế phụ (xu thế cấp 2) và xu thế nhỏ. 

Xu thế cấp 1 gồm cả 2 dạng là xu thế tăng và xu thế giảm. Về bản chất xu thế cấp 2 chính là đà ngăn cản sự phát triển của xu thế cấp 1.

XU THẾ CẤP 1 (XU THẾ TĂNG) CHỈ ĐƯỢC TIẾP DIỄN khi và chỉ khi phải luôn tạo ra các ĐỈNH CAO HƠN  và ĐÁY CAO HƠN. Hay đỉnh sau phải cao hơn đỉnh trước và đáy sau sẽ phải cao hơn đáy trước giống như các bậc thang vậy.

Xu thế phụ – xu thế cấp 2:

Đây được xem là giai đoạn “lấy đà”, để cho xu thế cấp 1 được tiếp diễn. Ngoài ra, xu thế phụ luôn đi ngược với xu thế chính. 

Nếu xu thế chính đang là xu thế tăng thì xu thế phụ sẽ là các đoạn điều chỉnh giảm. Ngược lại, nếu xu thế chính là xu thế giảm thì các giai đoạn điều chỉnh chính là giá phục hồi để sau đó giá tiếp tục giảm tiếp.

Xu thế cấp 3- xu thế nhỏ:

Xu thế nhỏ, theo lý thuyết Dow không kéo dài quá 3 tuần, dùng để điều chỉnh hoặc có những biến động giá đi ngược lại với xu hướng 2. 

Do tính chất ngắn hạn nên xu thế nhỏ không phải là mối quan tâm lớn đối với nhà giao dịch. Nhưng điều này không có nghĩa là bỏ qua chúng hoàn toàn; xu thế nhỏ vẫn phải được theo dõi vì những biến động giá ngắn hạn này cũng là một phần nằm trong xu hướng chính và phụ.

Hầu hết trader đều chỉ tập trung giao dịch theo xu hướng cấp 1, các xu hướng còn lại thường không rõ ràng hay bị nhiễu. Nếu quá tập trung vào các xu hướng nhỏ, nó có thể dẫn đến sai lầm, các nhà giao dịch bị phân tâm bởi biến động ngắn hạn và mất tầm nhìn tổng quát cho bức tranh thị trường lớn hơn.

  1. Các giai đoạn của thị trường

Các xu hướng chính có ba giai đoạn

Dow nói rằng có ba giai đoạn đối với mọi xu hướng chính (chính), đó là

xu hướng quan trọng nhất cần được chú ý.

• Giai đoạn tích lũy – giai đoạn đầu tiên của các nhà đầu tư được thông báo để bắt đầu tham gia thị trường với niềm tin rằng bước ngoặt là không thể tránh khỏi.

• Giai đoạn bùng nổ – trong giai đoạn này, giá bắt đầu tăng nhanh chóng và tin tức kinh tế cải thiện trở nên lạc quan hơn.

• Giai đoạn phân phối – giai đoạn này diễn ra khi các điều kiện kinh tế và tin tức đạt đến đỉnh điểm của họ. Nhiều nhà đầu tư trở nên được khuyến khích hơn và sự tham gia của công chúng tăng lên, khi các phương tiện truyền thông liên tục đăng tải những câu chuyện lạc quan. 

  1. Các chỉ số bình quân phải xác nhận lẫn nhau 

Trong lý thuyết Dow, việc đảo chiều từ thị trường bò (thị trường tăng) sang thị trường gấu (thị trường giảm) không thế nào được xác nhận nếu không có sự xác nhận từ 2 chỉ số (theo truyền thống là Chỉ số trung bình công nghiệp và đường sắt).

Điều này có nghĩa là các tín hiệu xảy ra trên biểu đồ của chỉ số này phải khớp hoặc tương ứng với các tín hiệu xảy ra trên biểu đồ của chỉ số khác.

Ví dụ: nếu chỉ số như Trung bình công nghiệp Dow Jones xác nhận 1 xu hướng giá tăng mới, nhưng chỉ số Trung bình vận tải Dow Jones vẫn nằm trong xu hướng giá giảm, như vậy không thể nào xác nhận được xu thể tăng có thể xảy ra. 

  1. Khối lượng giao dịch là điều kiện xác nhận xu hướng

Theo lý thuyết của Dow, các tín hiệu để mua và bán dựa trên biến động giá. Chính vì thế, khối lượng cũng được sử dụng như một chỉ báo để giúp xác nhận những gì thị trường đang gợi ý cho nhà giao dịch.

Từ nguyên lý này cho thấy, trong 1 xu hướng giá tăng khối lượng sẽ tăng theo khi giá di chuyển theo đúng xu hướng và giảm khi giá di chuyển theo hướng ngược lại. Ví dụ, trong một xu hướng tăng, khối lượng sẽ tăng khi giá tăng và giảm khi giá giảm.

Như vậy trong trường hợp khối lượng chạy ngược với xu hướng (giá tăng nhưng khối lượng giảm, giá giảm nhưng khối lượng giao dịch tăng) đó là dấu hiệu của sự yếu kém trong xu hướng hiện tại và có thể sẽ có sự đảo chiều xu hướng trong thời gian tới.

  1. Xu hướng được duy trì cho đến khi dấu hiệu đảo chiều xuất hiện

Việc xác định xu hướng là để cho chúng ta không giao dịch ngược hoặc chống lại xu hướng. Theo lý thuyết Dow, nguyên lý thứ sáu cũng là nguyên lý cuối cùng này tin rằng một xu hướng vẫn có hiệu lực cho đến khi xuất hiện nhiều dấu hiệu cho thấy nó đã bị đảo chiều.

Nhà giao dịch cần kiên nhẫn chờ đợi 1 bức tranh rõ ràng về việc đảo ngược xu hướng bởi vì như ở nguyên lý thứ 2 chúng ta biết rằng thị trường sẽ có nhiều xu hướng nhỏ (minor), xu hướng thứ cấp nên rất dễ gây nhầm lẫn đó thực sự là xu hướng chính hay chỉ là sự điều chỉnh xu hướng.

Các lưu ý về lý thuyết Dow

Lý thuyết Dow vẫn có 1 số hạn chế nhất định như nó khá trễ và không phải lúc nào cũng đúng hoàn toàn nhất là với những giao dịch ngắn hạn, do sự ảnh hưởng của tâm lý đám đông cùng sự phát triển của internet. Hơn nữa, thị trường giao dịch hiện tại theo các khung phút và giây chứ không giao dịch theo ngày như thị trường chứng khoán trước đó, vì lẽ đó thị trường sẽ bị nhiễu nhiều hơn thông tin sẽ kém chính xác hơn.

Bài viết mới
Tin nổi bật